25.4.08

Cho người thứ nhất (Entry for April 25, 2008)


Khật khưỡng tỉnh tỉnh say say với những giọt nắng trong vắt còn sót lại buổi hoàng hôn của Sài Thành, đung đưa trên cánh mai vàng ngày đầu Nguyên Đán. Hương Bạch Mai lướt thướt luồn vào từng phế nang, dòng thiên khí lặng lẽ lội trong khí quản và ngậm lại tại đan điền vài giây, rồi chậm rãi ngược dòng đi ra. Ly trà Ngu Ý ngất ngây tình thương yêu, phút chạnh lòng với tha nhân thôi thúc lữ khách đang đùa giỡn hư không, cợt nhả vô thức… khẽ mỉm cười!


4 chị em rong ruổi cả ngày mồng 1, tới vài ngôi chùa, gặp vài vị thiền sư trò chuyện và xem thiên hạ đón xuân ra sao. Thấm mệt nên “chạy” vào tĩnh lặng xả tạp nhiễm. Ô uế bám víu được tẩy sạch, trạng thái thấy biết thuần khiết, trong suốt và vô nhiễm hiển lộ, mệt mỏi tan biến. Bỗng nghe vang vọng tiếng niệm danh hiệu Quan Thế Âm. Lần theo dấu hiệu của thanh âm này... thì thấy… và mỉm cười ý vị! Rồi thì lấy máy đi động gọi cho một người và được nghe trả lời: “Anh đang hợp niệm với mọi người, xong anh gọi lại nhé!” Ok!

… Và anh tới chở PT đến café Bảo Hạ.

Photobucket

PT rất hoan hỉ được gặp anh vào ngày đầu tiên trong năm! Một người chưa từng gặp gỡ nhưng cũng không phải không quen biết. Giống như một giấc mơ mà trong đó quang cảnh, sự việc diễn ra vừa như xa lạ vừa như rất đỗi quen thuộc vậy.

Bây giờ, PT cố gắng nhớ lại từng khoảnh khắc và lắng đọng trong từng niệm để chia sẻ với anh những gì cần thiết. Và, hi vọng anh cùng lắng đọng tâm tư để hiểu được những điều PT muốn đề cập tới thông qua những con chữ sơ sài, cằn cỗi này!

Khi đọc, anh cố gắng tập trung lần ngược về quá khứ của chính anh để so sánh và đối chiếu các trạng thái tâm, tình huống tương ứng nhưng chớ để nó dẫn anh đi, hay chớ mải miết quyến luyến với nó. Đừng để bất cứ hình tướng, âm thanh, màu sắc, mùi vị nào chi phối. Như vậy thì anh mới dễ dàng hiểu và thấy rõ được những điều chân thật ẩn dưới những con chữ.

Trước nhất, chúng ta thống nhất một vài khái niệm mà PT sử dụng trong cuộc trao đổi. Các khái niệm này chỉ dùng để chỉ TÍNH của sự vật, hiện tượng được đề cập tới chứ không chỉ hình tướng, góc độ vật lí. Ví dụ, PT nói tới TỈNH THỨC, nghĩa là chỉ sự (hay công dụng của sự) KHÔNG NGỦ chứ không phải chỉ con mắt (hay động tác con mắt) đang mở hoặc một người đang thức. Các khái niệm này chỉ là sự thống nhất giữa PT với anh chứ không y cứ theo kinh sách nào cả (dù khi có sự trùng lặp), vì PT mới chỉ đọc qua vài trang chính kinh nguyên thể là A Di Đà, Dược Sư, Quan Âm, cũng chưa đọc các sách diễn giải nên không biết người ta dùng chúng như thế nào và để chỉ cái gì.

TÂM = Tâm động: Gồm 2 đối tượng là suy nghĩ và cảm xúc.

SUY NGHĨ: Bao gồm các sự cứu xét có đầu có cuối về đối tượng cụ thể bất kì từ bên ngoài hoặc bên trong đầu óc. Bên ngoài là tất cả những sự vật, hiện tượng mà anh tiếp nhận được qua ngũ quan ở mọi thời điểm đang trực tiếp tiếp xúc. Ví dụ, khi tiếp xúc với một người thì anh quan sát người đó và nhận định, phân tích… rồi kết luận người đó như thế nào đó theo khả năng và kinh nghiệm của anh. Bên trong là tất cả sự vật, hiện tượng mà anh hình dung, tưởng tượng, phác hoạ trong đầu óc không từ sự tiếp xúc trực tiếp ở bên ngoài. Nghĩa là tiếp xúc trực tiếp với tiềm thức hay kinh nghiệm quá khứ. Tuy nhiên, cái trong và ngoài không hẳn tách biệt và hoạt động độc lập, chúng có khả năng đan cài, bổ sung cùng hoạt động trong một thời điểm.

CẢM XÚC: Bao gồm tất cả các tình huống cảm giác ham muốn, lo lắng, sợ hãi, phấn khích, chán nản, hận thù, thất vọng, hi vọng, mơ ước, mong mỏi, chờ đợi, nhớ, thương, hờn, ghen, ghét, giận, bực tức, nóng nảy, vui nhộn, yêu mến, quyến luyến, buồn, cô đơn, trống trải, bình thường… về đối tượng cụ thể bất kì mà anh tiếp xúc từ bên ngoài thông qua ngũ quan hoặc bên trong thông qua tiềm thức. Sự tiếp xúc và tương hỗ của đối tượng ở bên ngoài và trong của cảm xúc cũng giống như của suy nghĩ.

Suy nghĩ và cảm xúc tương tác cùng hỗ trợ, bổ sung và cùng hoạt động gần như đồng thời, giống một vòng tròn khép kín, không đầu không cuối, không cái nào quyết định cái nào, không cái nào sinh ra cái nào nếu không có tình huống hay hệ quy chiếu cụ thể. Có nghĩa, nếu có suy nghĩ thì lập tức (hay đồng nghĩa) là sẽ có cảm xúc và ngược lại.

NIỆM: Là chỉ sự nhận định, phân biệt đơn lẻ (hay riêng rẽ) mọi đối tượng đã từng biết mà không cần đến một hay nhiều (dòng) suy nghĩ cụ thể có đầu có cuối. Ví dụ, khi gặp một người bạn quen thuộc tên A, lập tức anh định dạng, biết và gọi được người đó là A mà không cần phải suy nghĩ xem người đó tên là gì rồi mới biết. Hoặc, khi ba anh gọi tên anh, lập tức anh biết và thưa liền. Trong khoảng thời gian tự nghe và biết có âm thanh nhắc tới tên anh là anh không cần nghĩ cũng vẫn nhận diện và thưa được. Lúc vừa nghe âm thanh gọi tên, anh cũng lập tức biết ngay âm thanh đó của ba anh và người gọi là ba anh mà không cần phải nghĩ.

Về bản chất, NIỆM cũng giống như suy nghĩ và cảm xúc nhưng mang tính phân định nhận diện tức khắc chứ không động như suy nghĩ và cảm xúc với tính phân biệt cố chấp và cần nhiều thời gian. Ví dụ, trong khi anh nhận diện người bạn tên A thì không hề có bất cứ suy nghĩ hay cảm xúc gì với ý niệm A của anh. Tức chỉ biết mỗi một điều là, người đó là A chứ không phải biết nhiều cái của A mà anh đã biết hoặc những cái của (về) A sau khi niệm A khởi và hoàn tất. Nhưng vì thời gian của một niệm rất ngắn và nhanh, đồng thời các niệm liên quan liên tục được khởi lên nên trong khoảng 1s đồng hồ có thể có hàng chục hay nhiều niệm do tất cả các giác quan đồng thời cùng tiếp nhận đối tượng khi được tiếp xúc. Ví dụ, anh vừa nhìn người A, vừa nghe, vừa đụng vào người A thì sẽ có sự nhận diện của mắt, tai, da về người A đó. Vì thế, rất khó phân định rõ ràng từng niệm một, mà có cảm giác các niệm như cùng khởi một lúc.

Nhiều niệm kết nối chặt chẽ, có logic với nhau tạo thành một hay dòng suy nghĩ hoàn chỉnh về đối tượng bất kì. Ví dụ, khi thực hiện phép tính 1+1=2. Cả phép tính là một suy nghĩ hoàn chỉnh gồm có 5 niệm gắn kết với nhau là niệm về số một, niệm về cộng, niệm về số một, niệm về dấu bằng và niệm về số 2. Nếu coi niệm là suy nghĩ thì niệm là đơn vị nhỏ nhất của suy nghĩ. Niệm tự động phản ứng ngay tức thời gần như tự nhiên và phụ thuộc vào tiềm thức. Tức là phản xạ có điều kiện, những kiến thức được ghi nhận, tích luỹ bằng tri giác trong suốt thời gian sống.

TÂM CHÂN NHƯ=TÂM TĨNH LẶNG=BÁT NHÃ=TÂM PHẬT=THIỀN ĐỊNH=TỰ TẠI=TÂM VÔ NIỆM=TÂM VÔ NHIỄM=TRỐNG RỖNG=NHẤT TÂM BẤT LOẠN=SỰ THẤY BIẾT THUẦN TUÝ NGUYÊN THUỶ, KHÔNG PHÂN BIỆT ĐÁNH GIÁ DANH TÍNH: Không thể hiểu bằng suy nghĩ, không thể thấy bằng ngũ quan, chỉ có thể tự thấy biết! Nhưng đại khái là chỉ trạng thái chỉ biết QUAN SÁT và biết rõ mình đang vắng bặt, hoàn toàn không có bất cứ ý niệm, suy nghĩ hay cảm xúc nào dù thân thể có đang hoạt động hay không, dù các giác quan có đang nhận biết hay không.

TỈNH THỨC: Là chỉ trạng thái tỉnh táo, thấy rõ từng ý niệm, suy nghĩ hay cảm xúc, trống rỗng ĐANG (chứ không phải ĐÃ) diễn ra trong khoảng thời gian nhất định bất kì khi chúng tự hoạt động hay bị tác động mà hoạt động. Tỉnh thức chỉ chỉ sự thấy rõ duy nhất một trong 4 đối tượng là niệm, suy nghĩ, cảm xúc và trống rỗng vì 4 trạng thái này là đối tượng thấy biết của tỉnh thức, chúng luân phiên hoán vị nhau, đang có và thấy 1 đối tượng thì không có và thấy 3 đối tượng còn lại. Nghĩa là, nếu đang thấy niệm thì không hề thấy suy nghĩ, cảm xúc và trống rỗng. Tất thảy những gì làm cho (hay thuộc về) ý niệm, suy nghĩ, cảm xúc, trống rỗng hiện diện là đối tượng của chính chúng chứ không phải của tỉnh thức. Cho nên, tỉnh thức là sự thấy rõ và chỉ là sự thấy rõ những cái nội tại chứ không phải ngoại tại. Đó là ý nghĩa của các câu “muốn tỉnh thức thì không nên hướng ra ngoài”, “kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”, “phật tại tâm”… “Phật tại tâm” không đơn thuần là ám chỉ sự suy nghĩ, suy tư, tưởng nhớ hay tâm hướng về phật. Cố hiểu!

QUÁ KHỨ, TƯƠNG LAI: Là chỉ khoảng thời gian sau (đã qua) và trước (chưa tới) thực tế đang diễn ra với đơn vị tính bằng 5 phút (hoặc thậm chí là 1 phút, 1 giây hay nhỏ nhất là một niệm).

Photobucket

Khi anh hỏi sư phụ anh, “thiền là gì?” Và được trả lời, “con đi vệ sinh cũng thiền được.” Nếu không hiểu cặn kẽ về lí thiền thì sẽ có rất nhiều suy nghĩ xằng bậy về câu trả lời đó hoặc những câu trả lời tương tự và người trả lời. Hiểu cặn kẽ không phải là sự hiểu biết của suy nghĩ thuộc dạng kiến thức, hữu học. Mà là sự thực hành và chứng thực, chứng nghiệm. Danh từ thiền dùng để chỉ trạng thái giống như tỉnh thức chứ không phải động từ chỉ các cử chỉ, động tác. Vì vậy, không thể định nghĩa về thiền vơ tư cách như một định lí hay công thức có tính phổ quát được.

Không định nghĩa được nhưng chứng thực được và chỉ thực chứng với tư cách cá nhân. Giống như tình yêu của con người, nếu không yêu thì không thể hiểu, biết về tình yêu được. Và rõ ràng, mọi người công nhận sự hiện diện của tình yêu nhưng không thể định nghĩa hay chứng minh. Chỉ kẻ đang yêu (chứng thực) mới biết nó như thế nào mà thôi và y cũng không có cách nào để chứng minh cho mọi người thấy rằng tình yêu của y có hình tướng, màu sắc, âm thanh, hương vị, cảm giác như thế nào đó. Y hoàn toàn bất lực trong việc khuếch đại tình yêu của y như một sự vật, hiện tượng hữu hình. Mà, y chỉ có thể thông qua những thứ hữu hình để truyền tải, biểu thị cái mà y gọi là tình yêu của mình. Nhưng chắc chắn 100%, những thứ đó hoàn toàn không phải là tình yêu của y. Ví dụ, khi yêu, y tặng đối tượng của tình yêu của y một bông hồng hay bất cứ cái gì được coi là biểu tượng của tình yêu. Bông hồng đó là vật hữu hình truyền tải, biểu thị tình yêu của y nhưng không phải và cũng không giống cái được gọi là tình yêu trong y. Không thể nói tình yêu của y có hình hài, màu sắc, hương vị như (là của) bông hồng đó được.

Giống sư phụ của anh, khi anh hỏi “thiền là gì?” PT chỉ vào mình lúc chúng ta đang ngồi nói chuyện và trả lời, “bây giờ PT đang thiền đây! Anh thấy không?” Anh cười cười lắc đầu khiến PT cũng bật cười! Thực ra, câu trả lời của sư phụ anh và PT cho câu hỏi của anh đã trọn vẹn rồi, nhưng vì anh chưa chứng thực nên chưa hiểu, biết hay thấy được. Giống khi anh nói với một đứa bé 5 tuổi về tình yêu đôi lứa, nó sẽ không hiểu. Nếu anh cố tình bắt nó hiểu bằng các trạng thái nó có trong việc hưởng thụ tình yêu… thì chắc nó sẽ hiểu tình yêu giống niềm vui lúc được mẹ cho quà!

Sư phụ anh đã chỉ cho anh chỗ tối thượng, chỗ vi diệu, chỗ cuối cùng là chỗ chân thật của thiền rồi đó. Bản thân anh cũng từng chứng thực nhưng chưa nhận ra. Ở góc độ khác, sư phụ anh chính là người điểm đạo cho anh. Khi minh sư đích thân điểm đạo cho một người bất kì thì nhất định vị thầy đã thấy khả năng và cơ duyên đặc biệt của học trò. Về hình thức, một minh sư có thể có rất nhiều đệ tử hay người theo học, nhưng người được điểm đạo thì không nhiều. Người được điểm đạo là chân truyền hoặc là người có khả năng lĩnh hội ý chỉ trực tiếp, sẽ gặp các duyên lành để đảm bảo và phát triển tiếp những điều cần thiết đem lại lợi ích cho nhiều người nên minh sư sẽ dốc toàn lực để chăm nom, hỗ trợ bằng cách riêng. Còn những người khác vẫn là đệ tử nhưng không có khả năng này thì minh sư cũng vẫn dốc toàn lực nhưng chỉ để gieo duyên. Tất nhiên, minh sư không thiên vị bất cứ đối tượng nào, mà chỉ tuỳ năng lực mỗi đối tượng để ứng pháp sao cho phù hợp để đạt kết quả nhanh và tốt nhất mà thôi.

Photobucket

Như vậy, anh đang dần hiểu câu trả lời của sư phụ anh rồi. Và anh cũng đã biết cách để thấy rõ ràng hơn, để huân tập và sử dụng thường xuyên trong cuộc sống. Uy lực và tác dụng của thiền thì ai cũng công nhận và anh biết rõ điều này hơn ai hết thông qua những gì anh đã chứng thực từ khi gặp sư phụ. Tuy thân xác sư phụ anh đã tan nhưng sư phụ anh chẳng đi đâu cả, cũng chẳng rời xa anh nửa bước. Khi nào anh chứng thực thiền thì sẽ tự biết sư phụ anh ở đâu.

Qua các khái niệm mà PT nêu, anh khéo léo suy tư và áp dụng vào những phương pháp đang thực hành.

PT nhắc lại và chỉ nhắc anh mãi một điều rằng, không thể nào hiểu về thiền hay thiền chẳng có gì để hiểu cả. Chỉ có thể thực hành để thực chứng mới biết! Những cái anh tìm hiểu là những phương pháp để chứng thực thiền chứ không phải là thiền.

Muốn chứng thực, nhất định phải quay vào trong, càng chạy ra ngoài tìm thì càng xa. Ở vấn đề này, bất cứ sự hiểu nào, về cái gì mà anh được biết chỉ đóng vai trò giúp anh chứng thực thiền mà thôi, dù chúng là sản phẩm thiền của người khác. Mỗi người đều có “cái thiền” như nhau nhưng không thể cho hay lấy của nhau để sử dụng.

PT dùng tình huống để chỉ điểm:

Một người biết thiền và một người không biết thiền cùng có cảm giác và biết kêu trời nóng bức. Hình tướng và hoàn cảnh của họ giống người thường. Như vậy, người biết thiền khác người không biết thiền chỗ nào? Không phải người biết thiền thì điều phối thân nhiệt phù hợp với ngoại cảnh, cũng không phải họ biết cách làm cho trời hết nóng. Nói chung, về mặt thân thể vật lí và tri giác, hai người như nhau. Vậy, khác nhau ở đâu?

Người không biết thiền thấy trời nóng và kêu nóng nhưng không tập trung vào vấn đề đang diễn ra là trời nóng và suy nghĩ thì lan man nhiều vấn đề khác. Người này không biết mình đang có niệm hay suy nghĩ về trời nóng. Tức là, họ không biết xúc giác và tri giác của họ đang hoạt động khi chúng tiếp xúc với đối tượng là trời nóng.

Người biết thiền thì thấy tri giác của mình nhận diện và khởi niệm trời nóng khi xúc giác tiếp xúc với đối tượng là trời nóng, và ý niệm “trời nóng” được họ cho biểu hiện thành âm thanh được định dạng là “trời nóng”. Tức là, trong khoảnh khắc ấy, người này biết rõ rằng mình đang có niệm về trời nóng và không hề lẫn tạp các suy nghĩ hay niệm khác vào, hoặc nếu có thì họ cũng biết ngay.

Hôm nay tạm chia sẻ với anh như vậy!

Kết quả của thiền ngoài nội tâm an lạc, trí tuệ sáng suốt, thân tâm khoẻ mạnh thì còn là kết quả của tất thảy mọi hoạt động, công việc trong đời sống hàng ngày. Căn cứ vào sự khuếch đại này để biết và lấy đó làm thước đo cho việc thực hành, áp dụng thiền vào cuộc sống. Quan sát thật kĩ diễn biến của tâm, thân và những sự việc diễn ra hang ngày có liên quan. Quan sát thật tỉ mỉ từng niệm, suy nghĩ, cảm xúc hay sự tĩnh lặng, trống rỗng nếu có. Tất cả các pháp không phải để giải thích thiền mà là để giúp người ta tới chỗ chứng thực thiền và sống thiền.

Photobucket

Khi thực hành thiền quán (quan sát) nội tại, rất dễ rơi vào trạng thái cảm thấy cô đôn, trống trải, thậm chí là buồn chán. Lúc ấy, cần quan sát thật kĩ diễn biến của các trạng thái này của tâm, cho tới khi nào qua thì thôi. Nếu dừng lại ở đây thì rất nguy hiểm!

Nếu thấy hoàn toàn trống rỗng, tĩnh lặng thì cứ chỉ quan sát chính nó để kéo dài tới chừng tự bị thoát ra hoặc cần thoát ra. Có bất cứ một niệm nào thì đồng nghĩa với việc đã thoát ra khỏi tĩnh lặng. Khi đó, quan sát thật kĩ niệm hoặc suy nghĩ vừa khởi để trở về trạng thái tĩnh lặng.

Nếu quan sát niệm, suy nghĩ quá khó vì có những cái rất vi tế, khó nhận biết thì tập trung quan sát cảm xúc.

Khi có suy nghĩ hay cảm xúc thì chỉ cần quan sát kĩ là được, không cần phải làm bất cứ thứ gì để tiêu diệt hay khoả lấp, bất luận suy nghĩ, cảm xúc, niệm đó là thiện hay ác.

Thiền không phải là sự chạy trốn hay tiêu diệt những niệm, suy nghĩ, cảm xúc ác và chỉ hướng tới cái thiện khi tiếp xúc với tiềm thức hay các giác quan tiếp xúc với cảnh vật. Mà là đối mặt và thấy rõ chúng, bất luận vì đâu chúng khởi lên.

Khi đối mặt, thấy rõ thì sẽ tự biết làm gì để tâm được an lạc, quần chúng được lợi ích nếu cần và phải làm. Bí mật chính là ở chỗ này!

Thiền không phải để thấy quá khứ, tương lai, kiếp trước, kiếp sau hay phát huy thần thông gì gì đó (nhưng nhờ thiền mà có thể có những thứ đó). Biết thiền thì sẽ có trí tuệ sáng suốt nhất để giải quyết vấn đề đang diễn ra có kết quả tốt nhất! Trí tuệ này gọi là trí tuệ “VÔ HỌC” vì chẳng học hỏi từ bất cứ đâu, bất cứ ai.

Vậy nhé, có gì khúc mắc trong quá trình quan sát nội tại, anh cứ trao đổi với PT. PT tận lực giúp anh!

Tất cả những gì PT nói, không phải là kiến thức và không nên coi là kiến thức. Vô ích! Phải thực hành để thực chứng, không còn cách nào khác!

Kính chúc anh bình yên!

Thăng Long, ngày 24/04/2008


Photobucket


Phú Tuệ

No comments :

Post a Comment

Định dạng nhanh toàn Blog

Bản quyền thuộc Người lính Việt,Blogger-@2014-Xem tốt nhất ở độ phân giải 1024,tỉ lệ 100-125%.

Trang chủ | About Me | Chuyên trang video quân đội | Chuyên trang người lính với cộng đồng | Liên hệ